Skip to main content

Tác giả: admin

TỌA ĐÀM: UNG THƯ KHÔNG PHẢI DẤU CHẤM HẾT

Sáng ngày 24 tháng 10 năm 2015, tại hội trường Học Viện Quân y (số 160 Phùng Hưng, Hà Đông, Hà Nội) đã diễn chương trình tọa đàm: “Ung thư không phải dấu chấm hết”, nằm trong khuôn khổ chương trình Ngày hội sức khỏe lần thứ nhất do Hội Nội Khoa Việt Nam tổ chức.

                

GS.TS Nguyễn Bá Đức – Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam (thứ 3, trái sang), GS.TS Đào Văn Phan – Nguyên Trưởng khoa Dược lý, Đại học Y Hà Nội (thứ 2) tại tọa đàm về ung thư.

 Tham dự sự kiện có sự góp mặt của các chuyên gia, bác sỹ đầu ngành: GS.TS Nguyễn Bá Đức – Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam, GS.TS Đào Văn Phan – Nguyên Trưởng khoa Dược lý, Đại học Y Hà Nội, các cơ quan thông tấn báo chí, cùng gần 200 bệnh nhân ung thư, người nhà bệnh nhân trên cả nước.

Tại sự kiện, các chuyên gia đã giải đáp rất nhiều thắc mắc của bệnh nhân ung thư xoay quanh các vấn đề như: Nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp điều trị, hỗ trợ điều trị, phương pháp giải độc tính hóa trị, cách chăm sóc sức khỏe, chế độ dinh dưỡng…cho bệnh nhân ung thư. GS.TS Nguyễn Bá Đức nhấn mạnh: Hiện nay, với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có nhiều phương pháp chữa bệnh ung thư có hiệu quả, đem lại cơ hội chữa lành cho nhiều bệnh nhân. Quan trọng là, khi bị ung thư cần phát hiện sớm để điều trị kịp thời. Để tránh mắc và chống lại căn bệnh ung thư, người dân cần am hiểu những kiến thức cơ bản về ung thư cũng như các phương pháp điều trị và phòng tránh. Từ đó, có lối sống lành mạnh và khoa học”. GS cũng chỉ ra những quan niệm sai lầm về bệnh như : Ung thư trực tràng do chất độc hóa học Dioxin, ung thư không được quan hệ vợ chồng, ung thư không được đi đám tang,…v…v…

Đặc biệt hơn, tọa đàm còn đề cập tới một chủ đề thiết thực, hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của các bệnh nhân và gia đình người bệnh: Làm thế nào để nâng cao thể trạng, giảm bớt tác dụng phụ của hóa xạ trị? Đây chính là nội dung trọng tâm trong phần trao đổi của GS. TS Đào Văn Phan (Nguyên Trưởng khoa Dược lý, Đại học Y Hà Nội) cập nhật những nghiên cứu khoa học về vai trò của Nano Curcumin trong hỗ trợ điều trị ung thư, giúp nhanh chóng phục hồi thể trạng của bệnh nhân ung thư và nâng cao hiệu quả của các phương pháp trị liệu truyền thống.

GS Đào Văn Phan cho biết: “Việc sản xuất thành công Nano Curcumin và chuyển giao thành viên mang mềm CumarGold, thực sự là một bước đột phá của các nhà khoa học Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam khi ứng dụng được công nghệ nano để nâng tầm giá trị thảo dược truyền thống, đánh thức tiềm năng của cây nghệ vàng. Ngay từ năm 2005, khi bằng sáng chế đầu tiên được cấp, Nano Curcumin đã trở thành tâm điểm nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới với 254 bằng phát minh sáng chế của các quốc gia có nền y tế kĩ thuật phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật, Hàn Quốc… Trong đó bằng phát minh có liên quan đến ứng dụng Nano Curcumin trong hỗ trợ điều trị ung thư chiếm tỉ lệ lớn nhất (24%). Phân tích riêng về 24% các bằng liên quan đến ung thư thì thấy trong đó, 16% là ung thư vú, 10% là u hắc tố, 10% là ung thư tuyến tiền liệt, 10% là ung thư phổi, 9% là ung thư máu …”.

Đặc biệt trong buổi tọa đàm lần này, khách mời đã được lắng nghe câu chuyện cảm động của hai bệnh nhân ung thư nổi tiếng: nghệ sỹ Hán Văn Tình và cô gái ung thư máu có nghị lực sống phi thường Hoàng Diệu Thuần, những minh chứng sống động, những tấm gương sáng đầy lạc quan và niềm tin vào cuộc sống, tiếp thêm sức mạnh cho những bệnh nhân ung thư trên cuộc hành trình dài đầy gian nan chiến đấu với bệnh tật. GS.TS Đào Văn Phan – Nguyên Trưởng khoa Dược lý, Đại học Y Hà Nội

Nghệ sĩ Hán Văn Tình chia sẻ: “Tôi đã từng rất sốc và tuyệt vọng khi biết tin mình mắc bệnh. Tôi từng nghĩ rất nhiều đến ung thư và cái chết. Nhưng khi chứng kiến những người thân của mình khóc hết nước mắt, tôi nghĩ, chính bản thân mình phải là người cứng rắn nhất. Số tôi may vì có quý nhân phù trợ. Bạn bè, đồng nghiệp, khán giả, các chuyên gia đã giúp tôi vượt qua bệnh tật. Với tôi bây giờ ung thư không còn đáng sợ nữa. Nếu phát hiện sớm, dùng thuốc đúng chỉ định, tinh thần lạc quan thì ung thư sẽ sợ mà chạy”.

Cô gái “Như hoa hướng dương” Hoàng Diệu Thuần lại khiến cả hội trường, đặc biệt là GS.TS Nguyễn Bá Đức không khỏi khâm phục và xúc động trước nghị lực sống, niềm đam mê với công việc mãnh liệt.

Hoàng Thị Diệu Thuần tâm sự, tháng 9/2012, được ghép tế bào gốc điều trị ung thư máu, sau khi ghép cơ thể Diệu Thuần có hiện tượng thải ghép, miệng lở loét, chán ăn, da dẻ khô lại và cháy đen, chân tay co quắp, mọi sinh hoạt đều phải nhờ đến sự giúp đỡ của người thân và các y bác sỹ. Bên cạnh việc tuân thủ các liệu pháp điều trị của bác sỹ, có lối sống tinh thần thoải mái, Diệu Thuần kết hợp sử dụng sản phẩm CumarGold. Chỉ sau một thời gian ngắn, sức khỏe của cô đã được cải thiện rõ rệt, thèm ăn hơn, da dẻ đẹp hơn, cân nặng tăng từ 34 kg lên 40 kg. Cô nhắn gửi tới các bệnh nhân ung thư khác một thông điệp: Các bạn không đơn độc trong cuộc chiến cam go với ung thư, hãy sống như những chiến binh khi đối đầu với bạo bệnh và tin vào những tiến bộ của y học hiện đại. Chúng ta hoàn toàn có niềm tin và cơ hội”.

    Đông đảo bệnh nhân ung thư đã tới tham dự chương trình

Cuối sự kiện, ban tổ chức dành tặng mỗi khách mời một cuốn sách “Bệnh Ung thư – Nhận biết – Dự phòng & Chiến thắng kèm theo một hộp sản phẩm CumarGold – có chứa Nano Curcumin được chuyển giao từ đề tài nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Đây là một hoạt động vô cùng ý nghĩa mà các chuyên gia đến từ Hội Nội Khoa Việt Nam phối hợp cùng nhãn hàng CumarGold (thuộc công ty CP Dược mỹ phẩm CVI) tổ chức thực hiện. Sự kiện lần này giúp các bệnh nhân và cộng đồng nâng cao kiến thức về bệnh học, sớm phát hiện và kiểm soát ung thư, đồng thời củng cố niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho người bệnh vượt qua những khó khăn trong quá trình điều trị.

 

Nâng giá trị dược liệu nhờ khoa học

Một ngày có khoảng 30.000 người Việt sử dụng sản phẩm từ tinh nghệ Nano Cucurmin để phòng và hỗ trợ điều trị bệnh. Đó là thành quả của hướng đi bắt tay với nhà khoa học ứng dụng công nghệ vào các bài thuốc dân gian, nâng cao giá trị dược liệu truyền thống của Công ty Cổ phần Dược mỹ phẩm CVI.

Ứng dụng khoa học để cạnh tranh

 Trong số hơn 12.000 loài thực vật Việt Nam thì có gần 4.000 loài cho công dụng làm thuốc, nhiều loài dược liệu được xếp vào loài quý và hiếm trên thế giới. Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, xu hướng sử dụng thuốc từ dược liệu tăng so với việc sử dụng tân dược. Tuy nhiên việc bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn. Việc nuôi trồng và khai thác dược liệu còn tự phát, quy mô nhỏ dẫn đến sản lượng không ổn định, giá cả biến động.

Câu chuyện bắt tay với nhà khoa học của CVI được bắt nguồn từ thực tế: hằng năm có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học ra đời rồi lại nằm im trong ngăn tủ. Trong khi đó, rất nhiều cây dược liệu quý của Việt Nam chỉ được sản xuất dưới dạng sản phẩm thô, giá trị thấp và hiệu quả chữa trị bệnh chưa cao. Hướng đi duy nhất để giải quyết được hai nghịch lý này chính là sử dụng công nghệ được nghiên cứu bởi các nhà khoa học để nâng cao giá trị của dược liệu Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ ứng dụng khoa học thôi chưa đủ, sản phẩm phải được xây dựng trên cơ sở lắng nghe và nắm bắt được nhu cầu của thị trường, chỉ có doanh nghiệp mới làm được điều này. Vì vậy, hai người sáng lập CVI: ông Phan Văn Hiệu và ông Nguyễn Trường Thành đã quyết định chọn hướng đặt hàng các nhà khoa học, thay vì sản xuất từ các công trình nghiên cứu có sẵn. Và dòng sản phẩm đầu tiên – kết quả của sự liên kết giữa CVI và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ra đời – Cumar Gold – với thành phần chính là tinh nghệ Nano Cucurmin.

Lý giải cho việc chọn cây nghệ làm dòng sản phẩm đầu tiên để cùng với các nhà khoa học nghiên cứu, ông Hiệu cho biết: “Cây nghệ đã được dân gian sử dụng từ hàng nghìn năm trước để chữa dạ dày, ngăn ngừa ung thư và làm đẹp… Tuy nhiên, bột nghệ truyền thống chưa đem lại hiệu quả rõ ràng do còn lẫn nhiều tạp chất gây nóng. Mặt khác, cucurmin khi sử dụng qua đường uống thường gặp cản trở do không tan trong nước và chỉ hấp thu được khoảng 2 – 5%”. Bên cạnh đó, cây nghệ cũng đã là đề tài được rất nhiều quốc gia có nền khoa học tiên tiến nghiên cứu. Tất cả những nhược điểm của bột nghệ truyền thống đã được khắc phục khi CVI và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nghiên cứu và ứng dụng thành công công nghệ nano và cho ra đời dòng sản phẩm Cumar Gold.

Hiệu quả thực tế của sản phẩm, cộng với sự bảo chứng của những viện nghiên cứu khoa học hàng đầu của Việt Nam đã giúp dòng sản phẩm Nano Cucurmin của CVI nhanh chóng chiếm được niềm tin của người tiêu dùng. Chỉ sau hai năm, đã có khoảng 30.000 bệnh nhân trên khắp Việt Nam sử dụng các sản phẩm của CVI mỗi ngày. Tiềm năng của cây nghệ Việt Nam thực sự được đánh thức.

Việc CVI bắt tay với các nhà khoa học mang đến nhiều cái lợi: Người tiêu dùng có được sản phẩm tiện dụng, chất lượng cao để bảo vệ sức khỏe, nhà khoa học hài lòng vì nhìn thấy công trình của mình thực sự đi vào cuộc sống, và doanh nghiệp có được thành quả về doanh số cũng như có nguồn lực để tiếp tục tái đầu tư, nghiên cứu ra các dòng sản phẩm mới.

Nhiều cây thảo dược quý khác của Việt Nam như cây ba kích, lan gấm cũng đang được doanh nghiệp này ấp ủ để đưa ra những dòng sản phẩm mới, có giá trị kinh tế cao. Theo các chuyên gia về thương hiệu, để thành công, thương hiệu đó phải luôn có câu chuyện mới để kể với người tiêu dùng, có vẻ như CVI đang đi đúng hướng.

Thừa nhận, các sản phẩm nhái ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của CVI, tuy nhiên, ông Hiệu hoàn toàn tự tin với nền tảng khoa học mà CVI đã xây dựng được. Bởi sự gắn kết chặt chẽ và niềm tin của những nhà khoa học, viện nghiên cứu hàng đầu, cùng với chuỗi giá trị, đó là điều mà các doanh nghiệp khác không thể sao chép.


Đứng vững trên sân nhà trước khi vươn ra thế giới

Tự tin về sản phẩm, CVI cũng nuôi tham vọng đưa sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, điều mà doanh nghiệp này đang cân nhắc là tính thời điểm. Theo ông Hiệu, tại thời điểm này, việc đặt chân vào các thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt đối diện với không ít rào cản. Cái “vấp” quan trọng nhất là hàng rào kỹ thuật. Các sản phẩm trong nước mới chỉ dừng lại ở tiêu chuẩn VietGAP mà chưa có đơn vị nào chính thức đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp Việt tiếp cận với hệ thống tiêu chuẩn của thế giới. Khi các sân chơi hội nhập mở ra, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước sẽ càng trở nên khắt khe để bảo hộ cho các sản phẩm nội địa. Hiện chỉ có những doanh nghiệp lớn của Việt Nam mới có khả năng vượt qua những hàng rào này, còn với đa phần doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp mới khởi nghiệp của Việt Nam, vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Điều đáng nói là, khi Việt Nam tham gia ngày càng nhiều sân chơi khu vực và quốc tế thì riêng việc đứng vững trên sân nhà cũng đã là minh chứng cho khả năng cạnh tranh hội nhập của doanh nghiệp Việt, khi mà tất cả các thương hiệu từ nước ngoài đã và đang có kế hoạch tiến vào thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường trong nước cũng đang có rất nhiều dư địa để CVI khai thác và phát triển. Theo thống kê, bình quân chi cho sức khỏe trên đầu người ở Việt Nam từ 30 – 40 USD/ năm, trong khi đó, ở Đông Nam Á là từ 100 – 200 USD và trên thế giới, con số này là 300 USD. Như vậy, chỉ cần Việt Nam theo kịp Đông Nam Á thì thị trường dược phẩm trong nước sẽ tăng gấp 2 – 3 lần so với hiện tại. Đó là cơ hội lớn mà CVI không thể bỏ qua. Khi đã chắc chân tại thị trường trong nước, đó sẽ là đòn bẩy để tự tin vươn ra thị trường quốc tế, với nhiều kinh nghiệm hơn, thiện chiến hơn và có đủ nguồn lực. Vì vậy, giai đoạn hiện tại, CVI vẫn đang tập trung để xây dựng niềm tin của người tiêu dùng trong nước.

Theo ông Hiệu, để giải được bài toán hội nhập trong tương lai, các doanh nghiệp Việt cần chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng tới tiêu chuẩn quốc tế để tìm cơ hội xuất khẩu. Bên cạnh đó, cũng cần rà soát nhãn mác, bao bì sản phẩm để tránh những rủi ro về tranh chấp thương hiệu. Quan trọng hơn, để các doanh nghiệp Việt không thua trên sân nhà thì ngoài xây dựng thương hiệu sản phẩm, việc đầu tư  xây dựng kênh phân phối tốt là chìa khóa để đưa sản phẩm đến được với nhiều người.

Đinh Loannguồn : http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=83&NewsId=361602

Nhức nhối thực phẩm chức năng giả

(HQ Online)- Với tỉ lệ 63% người trưởng thành (tại Hà Nội) và 43% (tại TP.HCM) đang sử dụng, thực phẩm chức năng được xem là “mảnh đất màu mỡ” cho hàng giả, hàng nhái hoành hành. Thực trạng này không chi gây thiệt hại về kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh không bình đẳng mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng.   Lực lượng chức năng bắt giữ mỹ phẩ, dược phẩm, thực phẩm chức năng trên địa bàn biên giới Móng Cái, Quảng Ninh. Ảnh: Quang Hùng Thật giả lẫn lộn Thông tin tại Hội thảo Bảo vệ người tiêu dùng sử dụng thực phẩm chức năng (TPCN) do Văn phòng Ban chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu gian lận thương mại và hàng giả (Ban 389), Cục An toàn thực phẩm- Bộ Y tế phối hợp với Báo Lao động tổ chức, ông Trần Hùng- Phó Chánh Văn phòng thường trực Ban 389 cho biết: Mới đây tại Hà Nội, cơ quan chức năng đã thu giữ 20 tấn TPCN giả. Tại TP.HCM 12 tấn TPCN giả, không rõ nguồn gốc vừa bị bắt giữ tại quận 7. Phần lớn các mặt hàng TPCN làm giả, kém chất lượng đều được nhập từ Trung Quốc qua đường tiểu ngạch, về đến Việt Nam được các cơ sở thay bao bì, nhãn mác, nguồn gốc xuất xứ và mang đi tiêu thụ. Các vi phạm khá đa dạng như giả mạo về thành phần, chất lượng không đạt tiêu chuẩn đã đăng ký công bố, ghi nhãn sai và giả mạo bao bì, xâm phạm sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, vi phạm về thông tin, quảng cáo sản phẩm… Chia sẻ về vấn nạn sản xuất hàng giả trong lĩnh vực TPCN, đại diện Công ty Dược Mỹ phẩm CVI nói: Thời gian qua, doanh nghiệp đã tập trung xây dựng thương hiệu CumarGold, từ việc chuyển giao đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Hoá học- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ sau hai năm ra thị trường, những sản phẩm lấy thương hiệu và nhãn mác gần giống CumarGold, với những thông tin về công dụng tương tự CumarGold đã lên đến con số vài chục. Đây đều là những doanh nghiệp đã nhập khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu Nano Curcumin từ Trung Quốc, Ấn Độ có chất lượng thấp để đưa ra thị trường, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. “Thương hiệu CumarGold và đặc biệt là các giá trị của Nano Curcumin do CVI dày công xây dựng nhanh chóng bị cạnh tranh bởi những sản phẩm hàng nhái, hàng ăn theo. Chúng tôi chịu rất nhiều tổn thất, người tiêu dùng cũng rất hoang mang trước nhiều lựa chọn na ná nhau”, vị đại diện Dược Mỹ phẩm CVI nói. Kiểm soát chặt Hiện theo thống kê của Cục An toàn thực phẩm, trên thị trường Việt Nam, hơn 60% số sản phẩm TPCN được sản xuất trong nước, hơn 30% còn lại được nhập khẩu. Nhu cầu sử dụng TPCN gia tăng rất nhanh và ngày càng phổ biến ở các thành phố lớn. Theo khảo sát, số người sử dụng TPCN tại Hà Nội là 63% người trưởng thành, tại TP. HCM là khoảng 43% người trưởng thành. Chính vì nhu cầu sử dụng TPCN của người dân tăng cao không ngừng nên nhiều đối tượng đã không từ thủ đoạn để làm giả TPCN. Vậy nên để “dẹp” vấn nạn TPCN giả, theo ông Trần Hùng, không chỉ cần có sự chung tay vào cuộc của các cấp, các ngành các cơ quan chức năng mà còn cần sự phối hợp của các Hiệp hội, quần chúng nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, báo chí mới phát huy được tác dụng. Ông Hùng cho rằng thời gian tới ngành Y tế (cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp liên quan tới lĩnh vực TPCN) cần rà soát công tác quản lý trong giám định, chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng, đăng ký lưu hành, cấp giấy phép. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành tiêu chuẩn, đăng ký chất lượng, đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh đối với các mặt hàng TPCN. Bên cạnh đó Cục An toàn thực phẩm cần xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin về giấy phép, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng cho các cơ quan quản lý Nhà nước có chức năng kiểm soát nhập khẩu, kinh doanh TPCN. Về phía doanh nghiệp sản xuất TPCN, đại diện Công ty Dược Mỹ phẩm CVI cho rằng, doanh nghiệp phải là người chủ động, chủ động bảo vệ mình và bảo vệ khách hàng của mình. Việc chủ động này cần phải bắt đầu từ khâu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm của mình Mặt khác cơ quan quản lý Nhà nước cần sớm áp dụng quy định chặt chẽ về điều kiện sản xuất TPCN theo tiêu chuẩn GMP (thực hành sản xuất tốt), kiểm soát chặt chẽ tất cả các khâu từ nguồn nguyên liệu đầu vào phải đạt chuẩn và công bố tiêu chuẩn rõ ràng, nhằm phân biệt về hàm lượng dược chất chính và các tiêu chuẩn nguyên liệu trong hồ sơ công bố sản phẩm; Cục An toàn thực phẩm- Bộ Y tế nên quy định rõ yêu cầu bắt buộc tên TPCN khi công bố phải được bảo hộ, hoặc không vi phạm quyền bảo hộ của các SP đã đăng ký; Kiểm soát chặt chẽ việc công bố và chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào; Tăng cường công tác hậu kiểm, kiểm nghiệm các thành phần theo công bố, kiểm tra việc ghi nhãn sản phẩm cũng như các tài liệu thông tin quảng cáo sau cấp phép.

Gian nan chuyện biến dược liệu quý thành ‘sản phẩm vàng’

Qua bàn tay, trí óc của nhà khoa học, doanh nhân có tâm huyết, nghệ vàng và ba kích trở thành ‘sản phẩm vàng’ nâng cao sức khỏe chống lại bệnh tật.

‘Cái bắt tay thật chặt’ giữa nhà khoa học và doanh nghiệp

Hiện, nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học đang cất trong ngăn kéo. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp đau đáu đi tìm công nghệ để ứng dụng vào sản phẩm để đưa ra thị trường.

Và còn nhiều lắm những bất cập được nêu ra tại Hội thảo Doanh nghiệp với ứng dụng khoa học sáng tạo, từ chính sách đến thực tiễn do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 19/11.

Tại hội thảo, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho rằng: Doanh nghiệp phải là trung tâm biến các ý tưởng nghiên cứu thành sản phẩm xã hội, là chìa khóa để thương mại hóa các sản phẩm khoa học – công nghệ.  Tuy nhiên, việc ứng dụng các nghiên cứu của nhà khoa học vào thực tiễn sản xuất lại là con đường còn dài và khó khăn.

                            
                                           Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân
Một trong những nguyên nhân được Bộ trưởng Nguyễn Quân chỉ ra là tình trạng thiếu kết nối giữa nhà khoa học và doanh nghiệp khiến nhiều sản phẩm nghiên cứu hữu ích, có giá trị thực tiễn cao nhưng không có địa chỉ chuyển giao.

Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, để đẩy mạnh ứng dụng khoa học sáng tạo vào thực tiễn, cái bắt tay thật chặt giữa nhà khoa học và doanh nghiệp được xem là con đường tốt nhất để thương mại hóa các công trình khoa học.

Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học phải là mối quan hệ biện chứng. Các nhà khoa học phải nghiên cứu cái gì doanh nghiệp cần chứ không phải nghiên cứu cái nhà khoa học muốn, phải tạo ra các sản phẩm có tính ứng dụng cao và phục vụ đời sống nhân dân thì mới thu hút được đầu tư doanh nghiệp.

Ngược lại, doanh nghiệp cũng cần có sự chủ động trong nâng cao trình độ và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất. Doanh nghiệp phải là nơi sử dụng, phải là trung tâm biến các ý tưởng nghiên cứu thành sản phẩm xã hội.

Trăn trở đưa ứng dụng công nghệ vào dược liệu

                             
PGS – TS Phạm Hữu Lý, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Hàn lâm Khoa học – Công nghệ Việt Nam người từng dành cả thập niên nghiên cứu về công nghệ nano trăn trở: Cách đây 3 năm, đề tài nghiên  cứu về công nghệ nano ở viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (HLKHCNVN) đã được đưa vào ứng dụng cho cây nghệ vàng.

Chúng tôi và công ty dược mỹ phẩm CVI đã tìm được đến với nhau để làm ra sản phẩm ứng dụng công nghệ nano để gói tinh chất nghệ.

Đưa ứng dụng này vào giúp cho thành phần curcumin trong nghệ dễ dàng  hấp thu vào máu một cách hiệu quả. Từ đó hỗ trợ trị nhiều bệnh và nâng cao sức khỏe cho người dùng.

Rất may, tôi đã tìm được đúng đơn vị để chuyển giao và 2 năm nay, sản phẩm đã được người dùng đánh giá cao.

Tuy nhiên, không phải với công nghệ nào cũng may mắn như vậy. Có nhiều đề tài nghiệm thu tốt nhưng doanh nghiệp không thiết tha đưa vào ứng dụng hoặc cơ chế chính sách bất cập nên chúng tôi không an tâm để chuyển giao công nghệ. Thậm chí, khi chuyển giao rồi, thì sản phẩm của mình cũng không được bảo vệ.

 
PGS Lý nói: Ví dụ như với kết quả của sản phẩm nano curcumin, 2 năm đầu người tiêu dùng được dùng sản phẩm tốt từ chuyển giao công nghệ của viện HLKHCNVN nhưng sau đó nhiều cơ sở đua theo tung ra cái gọi là nano curcumin.

Nhưng ai chắc đó là nano curcumin thật? Vậy, nhà nước cần quản lý sao để doanh nghiệp đưa vào ứng dụng những đề tài khoa học không bị ‘chết đuối’ bởi hàng giả, hàng nhái? Nên, cần phải bảo hộ những sản phẩm khoa  học công nghệ.

Ở khía cạnh là doanh nghiệp đưa ứng dụng khoa học công nghệ vào sản phẩm, ông Phan Văn Hiệu, chủ tịch hội đồng quản trị công ty CVI chia sẻ: “Doanh nghiệp chúng tôi áp dụng khoa học công nghệ nâng cao giá trị các sản phẩm dược liệu thế mạnh, truyền thống của Việt Nam để phát triển các dòng sản phẩm dược phẩm có giá trị cao.

Chúng tôi may mắn thừa hưởng thành quả của một công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất dược phẩm, được chuyển giao từ Viện Hoá học – Viện HLKHVN.

Từ đây, công ty đã tạo ra được những dòng sản phẩm đột phá về hiệu quả sử dụng chứa nano curcumin từ cây nghệ vàng, phát huy các hiệu quả điều trị tuyệt vời của cây nghệ, mang đến niềm hy vọng cho hàng chục nghìn bệnh nhân ung thư, hàng trăm nghìn người đang bị đau dạ dày…

Ngoài ra, chúng tôi không chỉ tìm kiếm sự hợp tác chuyển giao từ các đề tài nghiên cứu khoa học có sẵn mà còn chủ động đặt hàng các nhà khoa học nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề từ thực tiễn và đã có hai đề tài được nghiệm thu.

                          
Ông Phan Văn Hiệu chia sẻ những khó khăn thách thức khi đưa sản phẩm là kết quả  hợp tác giữa nhà khoa học với doanh nghiệp trước đoàn chủ tọa gồm Bộ trưởng KHCN Nguyễn Quân; Thứ trưởng Bộ KHĐT Đặng Huy Đông; Phó chủ nhiệm ủy ban KHCNMT Quốc hội Lê Bộ Lĩnh.
Hiện, chúng tôi đang phối hợp với tỉnh Quảng Ninh, sử dụng một phần ngân sách hỗ trợ của tỉnh để cùng với tập thể hơn 10 nhà khoa học từ ba Trung tâm nghiên cứu lớn thực hiện một nhóm các đề tài NCKH tổng thể về cây dược liệu ba kích, nhằm đưa ra thị trường một dòng sản phẩm được NCKH bài bản từ cây ba kích tím.

Tuy nhiên, ông Hiệu cho rằng, để các ứng dụng khoa học công nghệ đi vào thực tiễn, đến với người dân cần hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ được vận hành công khai, minh bạch bằng cách luật hoá các quy định liên quan.

Một vấn đề nữa mà ông Hiệu băn khoăn là câu chuyện các doanh nghiệp được tài trợ để nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ.

Sự hỗ trợ từ phía nhà nước, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp là rất quý báu. Tuy nhiên, khi đã được cấp ngân sách, nếu doanh nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu về hoá đơn, chứng từ, giấy tờ theo đúng các thủ tục phức tạp của nhà nước… có thể bị đánh giá sai.

Thực tế, đã có những câu chuyện doanh nghiệp bị điều tra với lý do là lập khống chứng từ để hợp thức hoá các khoản tài trợ từ ngân sách của nhà nước.

Đặc biệt là câu chuyện một doanh nhân từng được giải thưởng gương mặt trẻ tiêu biểu VN năm 2012 ở Thái Bình bị khởi tố về tội lập khống chi sai 650 triệu đồng từ quỹ hỗ trợ phát triển KHCN của tỉnh.

Chủ tịch HĐQT CVI băn khoăn: Khoan bàn đến câu chuyện đúng sai nhưng bài học này khiến doanh nghiệp tham gia áp dụng KHCN mong muốn sử dụng một phần ngân sách nhà nước không khỏi chùn chân.

Nếu chúng ta đưa ra được cơ chế khoán ngân sách theo mục tiêu và kết quả của đề tài nghiên cứu thì vấn đề sẽ trở nên rõ ràng hơn rất nhiều, nhà nước dễ quản lý và doanh nghiệp cũng “tự tin” hơn khi sử dụng ngân sách nhà nước.

Hàng giả, hàng nhái ‘tấn công’ thị trường dược liệu Việt

PGS – TS Phạm Hữu Lý cho rằng, nếu Nhà nước không có cơ chế bảo vệ, các kết quả của nghiên cứu khoa học nano và dược liệu Việt sẽ bị làm giả, nhái.

Đau đầu với vấn nạn hàng giả, hàng nhái tràn lan

Tại Hội thảo Doanh nghiệp với ứng dụng khoa học sáng tạo, từ chính sách đến thực tiễn mới diễn ra, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho rằng: Để đẩy mạnh ứng dụng khoa học sáng tạo vào thực tiễn, cái bắt tay thật chặt giữa nhà khoa học và doanh nghiệp được xem là con đường tốt nhất để thương mại hóa các công trình khoa học.

Và sự ra đời của nano curcumin của Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (HLKHCNVN) đã đánh dấu Việt Nam trở thành nước thứ 10 trên thế giới sản xuất thành công.

Điều này tạo ra một bước nhảy vọt của các nhà khoa học Việt Nam trong việc ứng dụng công nghệ cao để nâng tầm giá trị thảo dược truyền thống và trở thành một trong 10 thành tựu khoa học công nghệ tiêu biểu năm 2013.

PGS.TS Phạm Hữu Lý, chủ nhiệm đề tài chế tạo Nano Curcumin cho biết “HLKHCNVN là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam sản xuất thành công Nano Curcumin cách đây 2 năm.

                          
PGS.TS Phạm Hữu Lý, chủ nhiệm đề tài chế tạo Nano Curcumin

Hiện trên thị trường đã có nhiều sản phẩm có chứa Nano Curcumin, nhưng tôi có thể khẳng đinh, cho đến giờ, chưa có sản phẩm nào có thể sánh được với Nano Curcumin do viện sản xuất về cả 3 yếu tố hàm lượng curcumin trong hạt nano, kích thước hạt nano, khả năng hòa tan trong nước.
 
Cụ thể, thứ nhất là hàm lượng Curcumin  trong hạt nano của Viện HLKHCN cao trên dưới 20%, trong khi đó các sản phẩm khác thường chỉ đạt 8- 10%.

Thứ 2, kích thước hạt nano ổn định, nằm trong khoảng 50-70nm nên có thể thâm nhập dễ dàng qua màng tế bào để phát huy hiệu quả.

Thứ 3, độ hòa tan trong nước tăng khoảng 8 ngàn – 10 ngàn lần so với curcumin thường.

Về công nghệ, chúng tôi chọn công nghệ micelle tiên tiến nhất trên thế giới, gói các curcumin vào nhân, giúp ổn định kích thước nano và tăng độ hòa tan trong nước.

Với chất lượng như vậy nhưng tìm được doanh nghiệp để phát triển sản phẩm, đưa đến tay người tiêu dùng không phải dễ dàng. Nhưng cuối cùng, viện HLKHCNVN đã ‘bắt tay’ được với công ty dược mỹ phẩm CVI để ra sản phẩm CumarGold chứa nano Curcumin.

                               
Ảnh chụp kính hiển vi cho thấy sự xâm nhập của Nano Curcumin (Cumargold) vào tế bào ung thư phổi. Ảnh: Viện HLKHCNVN 

Và CumarGold cũng là sản phẩm có chứa Nano Curcumin duy nhất tại Việt Nam được nghiên cứu đánh giá dược động học và thử nghiệm trên các dòng tế bào ung thư trước khi đưa ra thị trường.

Thấy được sự thành công của CumarGold khi tạo thành một trào lưu sử dụng Nano Curcumin để nâng cao sức khỏe, phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư, viêm loét dạ dày, nhiều đơn vị khác nhập nguyên liệu nước ngoài hoặc tự chế tạo nano curcumin với những tên gọi khác.

Tuy nhiên sự gắn kết chặt chẽ và niềm tin của những nhà khoa học, viện nghiên cứu hàng đầu, cùng với chuỗi giá trị, đó là điều mà các doanh nghiệp khác không thể sao chép.

Ứng dụng khoa học để tăng khả năng cạnh tranh

Một ngày có khoảng 30.000 người Việt sử dụng CumarGold (Nano Cucurmin) để phòng và hỗ trợ điều trị bệnh. Đó là không chỉ là thành quả các nhà khoa học khi ứng dụng công nghệ vào các bài thuốc dân gian, mà còn là của công ty Dược mỹ phẩm CVI khi đưa nghiên cứu khoa học vào thực tiễn cuộc sống.

                             
 
Câu chuyện bắt tay với nhà khoa học của CVI được bắt nguồn từ thực tế hằng năm có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học ra đời rồi lại nằm im trong ngăn tủ. Trong khi đó, rất nhiều cây dược liệu quý của Việt Nam chỉ được sản xuất dưới dạng sản phẩm thô, giá trị thấp và hiệu quả chữa trị bệnh chưa cao.

Lý giải cho việc chọn cây nghệ làm dòng sản phẩm đầu tiên để cùng với các nhà khoa học nghiên cứu, Thạc sỹ Dược học Phan Văn Hiệu, chủ tịch HĐQT công ty CVI cho biết: “Cây nghệ đã được dân gian sử dụng từ hàng nghìn năm, khi chiết tách được hoạt chất Curcumin đưa vào nghiên cứu, các nhà khoa học thấy rằng Curcumin có nhiều hoạt tính sinh học quý như khả năng chống viêm, giảm đau, diệt khuẩn HP, nhanh lành vết loét dạ dày, chống ung thư …

Tuy nhiên, bột nghệ truyền thống khó đem lại hiệu quả vì hàm lượng Curcumin thấp, lại lẫn nhiều tạp chất gây nóng. Mặt khác, cucurmin khi sử dụng qua đường uống thường gặp cản trở do không tan trong nước và chỉ hấp thu được khoảng 2 – 5%”.

Tất cả những nhược điểm của bột nghệ truyền thống đã được khắc phục khi các nhà khoa học nghiên cứu và ứng dụng thành công công nghệ nano và cho ra đời viên nang mềm CumarGold.

Hiệu quả thực tế của sản phẩm, cộng với sự bảo chứng của những viện nghiên cứu khoa học hàng đầu của Việt Nam đã giúp CumarGold nhanh chóng chiếm được niềm tin của người tiêu dùng, liên tục được vinh danh Top 10 Thương hiệu Việt Nam tin dùng 2014,2015 do Hội bảo vệ người tiêu dùng bình chọn.

Thừa nhận, các sản phẩm nhái ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của CVI, tuy nhiên, ông Hiệu hoàn toàn tự tin với nền tảng khoa học và công nghệ tiên tiến mà Viện HLKHCNVN đang sử dụng đã tạo ra một khoảng cách rất lớn về chất lượng và hiệu quả của CumarGold so với các sản phẩm có chứa Nano Curcumin trên thị trường.

Để biết thêm thông tin, độc giả liên hệ Trung tâm tư vấn miễn cước 1800.1796 hoặc truy cập website cumargold.vn

Phát triển công nghệ nano

Phong phú sản phẩm ứng dụng công nghệ nano

Vật liệu nano là những vật liệu có kích thước cực nhỏ ở mức nanomet (nm) của một chiều đến ba chiều. Nếu vật liệu có kích thước bằng hoặc nhỏ hơn 100 nm ở một chiều sẽ có dạng tấm, ví dụ tấm graphene từ graphite carbon; ở hai chiều sẽ có cấu trúc sợi hoặc hình ống như các ống nano carbon; ở ba chiều sẽ có cấu trúc hình cầu như các hạt nano kim loại,… 

Các hạt nano có kích thước rất nhỏ mắt thường không nhìn thấy được. Ở kích thước nano vật liệu có diện tích bề mặt rất lớn nên có hoạt tính hóa học rất mạnh và các tính chất quang, nhiệt… rất khác so với vật liệu tương ứng bình thường. Ví dụ dung dịch nano bạc kim loại chứa lượng lớn hạt bạc kim loại kích thước nano. Với cùng nồng độ khối, nhưng hạt càng nhỏ thì nồng độ hạt càng lớn (Bảng 1) và nhờ số lượng hạt rất lớn nên nano bạc kim loại có hoạt tính hóa học rất mạnh và các tính chất quang, nhiệt rất khác so với bạc kim loại khối. 
 

Bảng 1. Liên hệ giữa nồng độ khối, nồng độ hạt và kích thước hạt
của hạt nano bạc kim loại

 

Nguồn: Công ty TNHH Sinh hóa Môi trường Bình Lan, Nano bạc kim loại, tính chất và ứng dụng, 2015.


H.1: Ảnh một số vật liệu nano


Các ống nano carbon.
Ảnh: Minnamari Vippola, UTU.
Sợi nanocellulose.
Ảnh: Esa Vanhala, FIOH.
Chuỗi nano oxit kẽm.
Ảnh: Esa Vanhala, FIOH.


H.2: Thể hiện một số vật thể qua kích thước nano

 

Nguồn: Kai Savolainen, Ulrika Backman, Derk Brouwer, Bengt Fadeel,…; Nanosafety in Europe 2015-2025: Towards Safe and Sustainable Nanomaterials and Nanotechnology; Institute of Occupational Health, 2013.

 

Công nghệ nano không là một lĩnh vực độc lập mà phát triển cùng với nhiều lĩnh vực khác nhau, tùy theo mục đích sử dụng. Vật liệu nano kết hợp với những công nghệ hiện có trong nhiều lĩnh vực sẽ là động lực để công nghệ phát triển mạnh mẽ và được kỳ vọng về kinh tế. Công nghệ nano ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như sinh tổng hợp, y-dược, mỹ phẩm, điện tử-điện, quốc phòng, nông nghiệp, thực phẩm, dệt, phương tiện vận chuyển,… (H.3)
 

H.3 : Công nghệ nano được ứng dụng rộng rãi


Nguồn: McDermott Will&Emery, 2013 Nanotechnology Patent Literature Review.


Các ứng dụng công nghệ nano nhằm mục tiêu tạo sản phẩm hiệu quả, bền, nhẹ, rẻ và ít hao năng lượng. Một số vật liệu nano đã được sử dụng phổ biến trong sản xuất như hạt nano bạc kim loại được sử dụng trong nhiều sản phẩm khác nhau từ các sản phẩm quang, điện tử, các máy đo sinh học, thuốc dùng cho người và cây trồng, và nhiều sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như xà bông, kem đánh răng, khử mùi, son môi, dụng cụ trang điểm, lược…; vật liệu nano carbon nhẹ, bền, dẫn điện và nhiệt tốt được sử dụng trong sản xuất pin, dụng cụ thể thao, bộ phận xe…; các hạt nano từ oxít sắt dùng truyền dẫn thuốc; TiO2 và ZnO kích thước nano chống nắng trong mỹ phẩm hay nano vàng được sử dụng chữa lành vết thương…


Ngày càng nhiều sản phẩm được gắn “nhãn nano”, năm 2010 công nghệ nano đã xuất hiện trong 1.317 dòng sản phẩm trong khi năm 2005 chỉ có trong 54 dòng sản phẩm (BĐ 1). Hiện có hơn 1.600 sản phẩm dựa vào công nghệ nano đã được thương mại.


BĐ 1: Phát triển số lượng sản phẩm ứng dụng công nghệ nano


Nguồn: Alexandrina Soldatenko -University of Strasbourg, Current Uses of Nanotechnology, 2011.


BĐ 2: Lĩnh vực xuất hiện nhiều sản phẩm ứng dụng công nghệ nano

Nguồn: Alexandrina Soldatenko -University of Strasbourg, Current Uses of Nanotechnology, 2011.


Lĩnh vực có nhiều sản phẩm ứng dụng công nghệ nano như chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, nhà và vườn, tự động hóa, thực phẩm và đồ uống, lớp phủ, điện tử và máy tính, thiết bị gia dụng, sản phẩm cho trẻ em (BĐ 2). Khu vực có nhiều sản phẩm ứng dụng công nghệ nano là Mỹ, châu Âu và Đông Á (BĐ 3).


BĐ 3: Số lượng sản phẩm ứng dụng công nghệ nano theo khu vực


Nguồn: Alexandrina Soldatenko -University of Strasbourg, Current Uses of Nanotechnology, 2011.

 

 

Gia tăng đầu tư công nghệ nano 

Mỹ được xem là quốc gia sớm phát triển công nghệ nano. Giai đoạn 2001 đến 2014 có hơn 60 quốc gia quan tâm phát triển công nghệ nano, từ các quốc gia tiên tiến ở châu Âu đến Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và cả các quốc gia đang phát triển như Malaysia, Pakistan, Sri Lanka…(BĐ 4).
 

BĐ 4: Công nghệ nano hiện diện ở một số nước


Nguồn: Kirsten Rodine-Hardy Research Team, Nanotechnology in a Globalized World: Strategic Assessments of an Emerging Technology, 2014. 

 

Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) trong lĩnh vực nano ngày càng tăng cao, mức chi trên toàn cầu tính đến cuối năm 2011 khoảng 65 tỉ USD, ước sẽ gia tăng gần 120 tỉ USD vào năm 2015 (BĐ 5)
 

BĐ 5: Gia tăng chi cho hoạt động R&D lĩnh vực nano trên toàn cầu


Nguồn: Cientifica, Global Funding of Nanotechnologies & Its Impact, 2011.


BĐ 6: Chi cho hoạt động R&D lĩnh vực nano ở một số nước 


Nguồn: Cientifica, Global Funding of Nanotechnologies & Its Impact, 2011.


Mỹ chú tâm phát triển và là nước dẫn đầu chi cho R&D vào công nghệ nano (nhiều nhất là lĩnh vực sinh học nano, chủ yếu về dược phẩm và chẩn đoán bệnh, kế đến là sản xuất thiết bị và vật liệu công nghệ sinh học nano và phần mềm điều khiển) kế đến là Nga, Trung Quốc, Nhật và Đức (BĐ 6). Giai đoạn 2008-2010, tính riêng phần đầu tư từ phía nhà nước, tổng đầu tư của các quốc gia trên thế giới cho R&D công nghệ nano ước khoảng 50 tỉ USD, dẫn đầu là Mỹ kế đến là các nước Nhật, Nga, Đức… (BĐ 7); ở khối doanh nghiệp, Mỹ cũng là tiên phong, sau đó lần lượt đến các nước Nhật, Đức, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc ((BĐ 8). Có thể thấy khối doanh nghiệp ở các nước Mỹ, Nhật chi cho lĩnh vực nano nhiều hơn nhà nước; trong khi Nga, Trung Quốc, Pháp ngược lại, nhà nước có mức đầu tư lớn hơn.

 

BĐ 7: 10 quốc gia dẫn đầu mức chi của nhà nước cho hoạt động R&D lĩnh vực nano 


Nguồn: Kirsten Rodine-Hardy Research Team, Nanotechnology in a Globalized World: Strategic Assessments of an Emerging Technology, 2014. 

 

BĐ 8: 10 quốc gia dẫn đầu mức chi của doanh nghiệp cho hoạt động R&D lĩnh vực nano 

Nguồn: Kirsten Rodine-Hardy Research Team, Nanotechnology in a Globalized World: Strategic Assessments of an Emerging Technology, 2014. 

 


Đẩy mạnh R&D công nghệ nano

 

Những năm gần đây hoạt động R&D về công nghệ nano phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Điều này được phản ánh qua lượng tài liệu cũng như đăng ký sáng chế (SC) về công nghệ nano gia tăng hàng năm và phát triển mạnh từ 2004 đến nay (BĐ 9, BĐ 10).


BĐ 9: Công bố tài liệu về công nghệ nano ở các nước

Nguồn: Mike Roco, Nanotechnology Research Directions for Societal Needs in 2020, OECD, 2012.

BĐ 10: Phát triển số lượng sáng chế về công nghệ nano


Ghi chú: Apps: số đơn đăng ký SC tại USPTO (Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Mỹ); Patents: số bằng SC được cấp tại USPTO; WIPO: số liệu SC tại WIPO (Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới). 

Nguồn: McDermott, Will & Emery, 2013 Nanotechnology Patent Literature Review.


Kể từ 2009 trở về trước, các nhà khoa học Mỹ đứng đầu về công bố tài liệu về nano; từ 2010 đến nay, số lượng tài liệu được công bố của Trung Quốc trong lĩnh vực này đã vượt lên hàng đầu, Mỹ xếp thứ hai rồi đến Đức (thuộc khối EU) (BĐ 11). Tương tự, về số lượng đăng ký SC, từ 2004 trở về trước, Mỹ cũng luôn dẫn đầu nhưng từ 2005 đến nay, Trung Quốc đã vượt Mỹ, giai đoạn 2005-2009 Trung Quốc có gần 16.000 SC đăng ký liên quan đến công nghệ nano, trong khi Mỹ chỉ khoảng 14.000 SC đăng ký (BĐ 12). Tuy nhiên đăng ký theo Hiệp ước PCT Mỹ chiếm tỉ lệ cao nhất, trên 35%, Trung Quốc xếp sau các nước Nhật, Hàn Quốc, Đức. Pháp, Vương Quốc Anh (BĐ 13). 
 

BĐ 11: Số lượng tài liệu về công nghệ nano ở các nước


Nguồn: Kirsten Rodine-Hardy Research Team, Nanotechnology in a Globalized World: Strategic Assessments of an Emerging Technology, 2014; PCAST, 2012. 


BĐ 12: Số lượng đăng ký sáng chế về công nghệ nano ở các nước 
(Từ năm 1990-2009)


Ghi chú: số liệu từ cơ sở dữ liệu sáng của Cơ quan Sáng chế châu Âu (EPO) 

Nguồn: Kirsten Rodine-Hardy Research Team, Nanotechnology in a Globalized World: Strategic Assessments of an Emerging Technology, 2014; PCAST, 2012.


BĐ 13: Tỷ lệ đăng ký sáng chế về công nghệ nano ở các nước
(Theo Hiệp ước PCT, từ năm 2009-2011)

Ghi chú: Số liệu dựa trên sáng chế được đăng ký theo Hiệp ước PCT (Patent Cooporation Treaty)  

Nguồn: OECD, Key Nanotechnology Indicators, 2014.


Công nghệ nano đã được nghiên cứu phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Công nghệ nano ứng dụng mạnh mẽ trong công nghiệp điện tử và máy tính, điều này được minh chứng qua lượng SC về ứng dụng công nghệ nano trong lĩnh vực này nhiều nhất, tiếp theo là hóa, sinh…(BĐ 14) và xu hướng sẽ phát triển trong nhiều lĩnh vực khác. 

BĐ 14: Số lượng SC ứng dụng công nghệ nano trong các lĩnh vực

Nguồn: McDermott, Will & Emery, 2013 Nanotechnology Patent Literature Review.

 


Hấp dẫn nhiều doanh nghiệp

 

Nhờ nhiều triển vọng, nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp (DN) phát triển các hoạt động liên quan đến công nghệ nano. Hai nước có nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực này là Mỹ có trên 5.000 DN và Đức trên 1.000 DN, trong đó chuyên về công nghệ nano ở Mỹ có trên 500 DN và Đức có khoảng 300 DN (Bảng 2). Tương lai hấp dẫn nhưng không ít cạnh tranh khiến các công ty mạnh tay chi cho R&D về công nghệ nano như Mitsubishi, Motorola, Lucent, Hitachi, Nec, Sony, Microsoft, IBM, Hewlett – Packard… Mitsubishi hy vọng sẽ tạo ra những loại sợi carbone nhỏ chắc hơn thép 100 lần và nhẹ hơn thép 6 lần; IBM đang tạo ra những phân tử nano có hai tính chất: vừa là kim loại vừa mang tính bán dẫn nhằm tạo ra những thế hệ máy tính khỏe và bền; các hãng điện thoại di động như Nokia, Motorola hay Ericsson đều đang trông chờ vào vật liệu nano để tạo ra những loại pin siêu bền, những loại điện thoại ngâm dưới nước hay chịu được nhiệt độ cao; Hewlett – Packard cũng không muốn chậm chân, đang thử nghiệm nhiều loại vật liệu nano… Trong danh sách 15 đơn vị dẫn đầu đăng ký SC liên quan đến công nghệ nano có các công ty đều trong lĩnh vực điện tử và máy tính, dẫn đầu là IBM, Hon Hai Precision Industry hay Samsung (Bảng 3).


Bảng 2: Số công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ nano ở các nước
 

Ghi chú:

*: doanh nghiệp dùng công nghệ nano sản xuất các sản phẩm, thực hiện các dịch vụ hay nghiên cứu công nghệ nano
**: thực hiện hoạt động nghiên cứu công nghệ nano, có ít nhất 75% sản phẩm/dịch vụ hay hoạt động R&D  

Nguồn: OECD, Key Nanotechnology Indicators, 2014.


Bảng 3: Các đơn vị dẫn đầu đăng ký SC về công nghệ nano, năm 2013
 

Nguồn: McDermott, Will & Emery, 2013 Nanotechnology Patent Literature Review.

 

 

Việt Nam với công nghệ nano 
 

Ở Việt Nam, tuy khá khiêm tốn, nhưng từ 1998 đã bắt đầu có những đầu tư cho nghiên cứu công nghệ nano. Đến nay, nhiều kết quả nghiên cứu và ứng dụng công nghệ nano được công bố từ các đơn vị như Trung tâm Nghiên cứu Triển khai (Khu Công nghệ cao TP. HCM), Viện Vật liệu (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội, ĐH Khoa học Tự nhiên TP. HCM, ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Bách khoa TP. HCM… Các phòng thí nghiệm công nghệ nano được thành lập nhằm tăng cường năng lực R&D ứng dụng công nghệ nano như Phòng Thí nghiệm Công nghệ nano (Đại học Quốc gia TP. HCM), Phòng Thí nghiệm Công nghệ micro và nano (Đại học Công nghệ).


Cùng các đơn vị nghiên cứu, khối doanh nghiệp cũng đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất như:


   • Các nhà khoa học Viện Hóa học (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) đã chế tạo thành công nano curcumin chiết xuất từ củ nghệ vàng và chuyển giao nguồn nguyên liệu quý này cho Công ty Dược Mỹ phẩm CVI kết hợp với Đại học Dược Hà Nội và Công ty Cổ phần Dược phẩm Mediplantex cho ra thị trường sản phẩm CurmarGold có tác dụng phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư, viêm loét dạ dày tá tràng, bệnh lý gan mật và một số bệnh mạn tính.
 

   • Trung tâm Nghiên cứu Triển khai (Khu Công nghệ cao TP. HCM) phối hợp Công ty Mori A Phương Vy đưa hạt nano titandioxit và nano vàng vào các sản phẩm làm đẹp da. 
 

   • Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Thiết kế vi mạch (Đại học Quốc gia TP. HCM) hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu Triển khai (Khu công nghệ cao TP. HCM), với sự đầu tư của Sở KH&CN TP.HCM, đã chế tạo thành công chip sinh học vi cân tinh thể thạch anh QCM (Quatzt Crystal Microbalance), biochip này cho phép phát hiện nhanh phẩy khuẩn tả. 
 

   • Sản phẩm silicate nano tách ra từ vỏ trấu được dùng để tổng hợp colloidal do PGS. TS. Nguyễn Thị Hòe (Chủ tịch Tập đoàn Sơn Kova) sáng chế được dùng cho nhiều lĩnh vực như sơn, chống thấm, mỹ phẩm, dược phẩm, vi tính… Và các loại sơn nano đặc biệt được làm từ vỏ trấu như Sơn chống đạn – Sơn chống cháy – Sơn kháng khuẩn đã được Tập đoàn Sơn Kova giới thiệu ra thị trường.
 

   • Công ty TNHH Sinh hóa Môi trường Bình Lan giới thiệu sản phẩm nano bạc làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất phân bón và thuốc nông nghiệp, sơn, mỹ phẩm, dược phẩm,…tại Techmart “Sáng chế và kết quả nghiên cứu sẵn sàng chuyển giao” trong tháng 7/2015 tại Sàn Giao dịch công nghệ TP. HCM.
 

Kích thước siêu nhỏ của vật liệu nano đã tạo ra những “đột biến” thần kỳ trong rất nhiều lĩnh vực, tác động trực tiếp đến đời sống con người. Tuy nhiên, hiện nay các sản phẩm ứng dụng công nghệ nano được đưa ra thị trường hầu như chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ những ảnh hưởng của chúng lên sức khỏe con người và môi trường. Đây là quan ngại rất lớn của các nhà khoa học bởi những hạt nano rất nhỏ có thể xâm nhập qua da, di chuyển qua hệ thống ống lympho để đi đến các hạch bạch cầu (lymph nodes) và cuối cùng là đến các cơ quan như gan, thận và lá lách…, hay khi hít vào thì những hạt nano sẽ đi sâu vào phổi hơn so với những hạt có kích thước lớn hơn…Và khi môi trường với đủ loại vật liệu nano sẽ tác động ra sao đến nguồn nước, đất đai, động thực vật… Vì thế, rất cần những nghiên cứu cẩn trọng đánh giá tác động đến sức khỏe và môi trường của vật liệu nano trước khi đưa ra thị trường, và các nhà sản xuất cần cung cấp đầy đủ những thông tin về cách thức sử dụng những hạt nano hay sản phẩm có ứng dụng vật liệu nano một cách an toàn.